9 Days in the Spratly Islands / 9 Ngày Trên Quần Đảo Trường Sa

In Search of Peace and Sovereignty / Tìm Kiếm Hòa Bình và Chủ Quyền

  1. Sisterhood | Chị Em

As a part of the first wave of refugees in 1975, entire states separated us in our new expansive country. The warmth of Vietnamese sisters my own age is something I have never known. On the trip, I was gifted with nine Vietnamese sisters whose homes were in a myriad of countries: Malaysia, Cambodia, Thailand, Laos, the U.S., Israel, Poland, and Russia. Assigned to bunk together, we hunkered in a small narrow room on the lowest deck of the boat on five bunk beds. Sadly, I have never, in my entire life, been in a room with so many Vietnamese women at once. In fact, the last time I may have been in such close quarters with as many Vietnamese people as were on the ship – 238 in total – may have been when I fled the country in 1975. It made me realize that it was more than South Vietnam that we, the younger generation, lost.

Là một phần của làn sóng tị nạn đầu tiên vào năm 1975, chúng tôi đã bị tách rời bởi nguyên các tiểu bang trên đất nước rộng lớn mới này. Sự ấm áp của những người chị em Việt cùng lứa tuổi là điều mà tôi chưa từng biết. Trong chuyến này, tôi được đi cùng với chín chị em Việt Nam ở vô số quốc gia: Malaysia, Campuchia, Thái Lan, Lào, Mỹ, Israel, Ba Lan và Nga. Được chỉ định ngủ trêm các giường tầng cùng nhau. Chúng tôi ngủ  chung trong một căn phòng nhỏ hẹp trên năm chiếc giường ở tầng thấp nhất trong boong tàu. Đáng buồn, trong suốt cuộc đời, tôi chưa bao giờ ở cùng với nhiều phụ nữ Việt Nam trong một căn phòng như vậy. Trên thực tế, lần cuối cùng tôi ở gần nhiều người Việt như vậy là trên tàu – tổng cộng 238 người – lúc chạy trốn vào năm 1975. Điều đó khiến tôi nhận ra rằng còn hơn là miền Nam Việt Nam mà chúng tôi – thế hệ trẻ đã mất.

Bunking with nine Vietnamese women becomes a strange and beautiful adventure. This is as challenging as it is comedic since my language skills are seriously lacking. Imagine nine voices going on at once, each one delivering a parable, an anecdote, a metaphor, or a proverb about the many dramas during the trip. Though I caught the gist of my sisters’ conversations, there are many times when I must swing down from my top bunk, grinning like one addicted to a tele-novella, to jab at my bunkmate, “Dịch cho ta đi!”

Ngủ cùng với chín người phụ nữ Việt Nam trở thành một cuộc phiêu lưu kỳ lạ và đẹp đẽ. Đây là một thử thách không kém phần hài hước vì khả năng Việt ngữ của tôi còn thiếu sót. Hãy tưởng tượng chín giọng nói phát ra cùng một lúc, mỗi giọng nói truyền tải một câu chuyện ngụ ngôn, một giai thoại, một ẩn dụ hoặc một câu tục ngữ về nhiều bi kịch trong chuyến đi. Mặc dù tôi hiểu được ý chính của các cuộc trò chuyện của chị em mình, nhưng có nhiều lúc tôi phải quành xuống từ chiếc giường trên của mình, cười toe toét như một người nghiện tiểu thuyết viễn tưởng, để ghẹo cô cùng phòng, “Dịch cho ta đi!”

Though I am often completely confused, I always feel as if I am a part of a tight knit crew. My sisters are the best part of the trip. Each sister is amazing in her own way. I am humbled as I witness a sixty-eight-year-old sister swing up to her top bunk every night after helping the kitchen staff wash dishes. My sisters tell me stories of having to learn Vietnamese in secret as children, of practicing a diversity of faiths, of migrating across several borders, of raising children in countries where they must learn six languages.

Mặc dù tôi thường hoàn toàn bối rối, nhưng tôi luôn cảm thấy như mình là một thành phần của nhóm chặt chẽ này. Các chị em Việt là phần tuyệt vời nhất của chuyến đi. Mỗi chị em đều tuyệt vời theo cách riêng của mình. Tôi rất kính nể khi chứng kiến ​một chị sáu mươi tám tuổi mỗi đêm đu lên giường sau khi giúp việc bếp núc. Các chị tôi kể cho tôi nghe những câu chuyện khi còn nhỏ phải bí mật học tiếng Việt, thực hành đa dạng tín ngưỡng, hoặc di cư qua nhiều biên giới, nuôi dạy con cái ở những quốc gia mà chúng phải học sáu thứ tiếng.

Over nine days, we nourish one another, slice fruit on our top bunks to share, remind each other to go to sleep, go to the bathroom, drink water! We teach each other the cha-cha-cha, share grief at the ceremony to remember those lost at sea, sing karaoke on the top deck of the ship on a windy night, then coin, cạo gió, each other the next day, filling the dorm room with the strong scent of healing – menthol infused eucalyptus oil.

Trong chín ngày, chúng tôi nuôi dưỡng nhau, chia sẻ cắt trái cây trên giường, nhắc nhở nhau đi ngủ, đi vệ sinh, uống nước! Chúng tôi dạy cho nhau cha-cha-cha, chia sẻ nỗi đau thương trong buổi lễ tưởng nhớ những người đã mất trên biển, hát karaoke trên boong tàu trong một đêm lộng gió, dùng đồng xu cạo gió cho nhau. Phòng ngủ đầy hương chữa bệnh – ướp tinh dầu bạc hà tẩm tinh dầu bạch đàn.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here