
Bài Đọc Tiếng Việt Z.M. Quỳnh và Anh Tôn đồng dịch
Để xem video trình bày đi kèm, xin vui lòng truy cập “The Impact of Silence on Cultural Memory” (Sự ảnh hưởng của sự im lặng trong văn hóa ký ức) trên Youtube.
Gia đình tôi chạy trốn khỏi Việt Nam vào một ngày cuối cùng – ngày 30 của Tháng Tư, và vào thời điểm khả thi nhất. Buổi sáng hôm đó, chúng tôi tụm lại ở căn nhà của Bác Loan. Khi ấy, bác đã không còn ở đó, sau nhiều hồi thuyết phục, bác đã miễn cưỡng ngồi trên một chiếc máy bay đi sang Mỹ trước khi cuộc sụp đổ bắt đầu. Dù có thể là nơi bị nhắm đến nhiều nhất bởi các lực lượng xâm chiếm, ngôi nhà của bác, nơi được trang bị cho tình huống tồi tệ nhất, lại cho chúng tôi nơi trú ẩn an toàn nhất. Hầu hết thế giới biết đến bác là “Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan,”nhân vật chính trong bức ảnh “Saigon Execution” (“Cuộc hành quyết ở Sài Gòn”) của Eddie Adams. Mặc dù được tôn kính và ngưỡng mộ ở Việt Nam Cộng Hòa, bác bị hiểu lầm và khiếp sợ ở nơi khác. Tôi chỉ biết bác là “Bác Loan.”
Chuyến bay rời khỏi Sài Gòn của chúng tôi bắt đầu chỉ vài giây sau khi bài phát thanh vào lúc 9 giờ 30 sáng của Tổng Thống Dương Văn Minh vang lên, những từ ngữ trong câu lệnh tuyệt vọng dội vào bức tường nhà Bác Loan: “Tất cả binh lính của Việt Nam Cộng Hòa hãy buông súng.” Người lớn trong nhà tôi gào lên trong đau đớn. Hình hài nguyên sơ và đậm đặc của nỗi sợ và sự tuyệt vọng níu lấy chúng tôi khi chúng tôi băng qua những nẻo đường hỗn loạn ở Sài Gòn để đến phi trường.
Chúng tôi đã chẳng có thời gian hay xa xỉ nào để di dời nhiều hơn chính thân xác của chúng tôi. Và ngay cả khi chỉ có thế, chúng tôi đã suýt thất bại. Một thời lượng ngắn vỏn vẹn trong ít phút mà tưởng như một đời người trôi qua, tôi bị bỏ lại trên một đường bay chỉ để nhìn vào một khoảng không vô tận trên một cánh cửa máy bay không mở được trong lúc gia đình tôi vội vã chạy về phía một chiếc máy bay chở hàng khác.
Mặc dù tôi đang kể lại mọi thứ theo trình tự thời gian, ký ức của tôi về thời điểm Sài Gòn sụp đổ thực chất chỉ còn là một mảng mờ nhạt, đọng lại từ những xúc cảm chớp nhoáng, mơ hồ và rời rạc: cảm giác kỳ quặc không thể giải thích được khi ngồi trong chiếc xe đó, một cái đèn rơi vào đầu tôi, và người người chạy tán loạn, lao qua những con phố bên ngoài. Nhưng có một hình ảnh rõ rệt và tách biệt khỏi những hồi ức vụn vỡ của buổi sáng hôm đó: chính là khi mẹ tôi bật khóc lúc chuẩn bị rời xa, bỏ lại sau lưng là quê hương, là gia đình. Và gia đình ấy đã bị kẹt lại ở Huế, nơi chứng kiến vụ thảm sát tồi tệ nhất Việt Nam Cộng Hòa trong suốt cuộc chiến thảm khốc.
Ngoài những ký ức trên, câu chuyện về cuộc đi tìm lối thoát và đất nước mà chúng tôi đành bỏ lại chưa bao giờ được kể, chúng chỉ từng được mường tượng đến mà thôi. Trong gia đình tôi, mọi thứ được biết đến trong sự mặc định, như thể những nhận thức đó đã thẩm thấu từ lâu sâu trong sự im lặng. Mặc dù những tác phẩm của tôi thường gợi ý điều ngược lại, tôi đã không lớn lên dưới sự ảnh hưởng của tinh thần yêu nước cuồng nhiệt của Việt Nam Cộng Hòa. Những âm hưởng chính trị về cuộc chiến, về Việt Nam Cộng Hòa, hay tâm lý chống Cộng chưa một lần hằn sâu vào nhận thức khi bé của tôi. Thay vào đó, thứ tôi trải nghiệm được lại là một sự im lặng tuyệt đối và tột độ. Những người lớn, gồm cả – và đặc biệt hơn cả – là bác tôi, đã dành trọn tình thương và sức lực của mình, dồn lại và dâng hết để đổi lấy lẽ sinh tồn cho chúng tôi.
Sự im lặng ấy bắt đầu chỉ vài tháng sau khi tôi đặt chân đến California, khi mà tôi bắt đầu nếm trải những trận bạo lực hằng ngày nơi sân trường vì sự bất lực trong giao tiếp bằng Tiếng Anh. Trong khi luân phiên tìm cách chống chọi và ngăn chặn sự tiếp diễn của những bạo hành ấy, gia đình tôi đã thực hành nội quy “không nói Tiếng Việt”. Và rồi, suốt một thập niên, thay vì được học về tiếng mẹ đẻ, lịch sử, và di sản cội nguồn, tôi được dạy cách phải im lặng, cho đến khi sự im lặng trở thành một phần nhân thân tôi.
Trái ngược lại với sự im lặng ấy, tôi lại thường xuyên phải nghe đi nghe lại một lời chỉ trích: “mất gốc.” Người lớn quanh tôi sẽ buông lời trách móc ấy mỗi khi tôi nói hoặc làm điều gì đó quá “Mỹ,” đến mức những dấu vết cuối cùng về cội nguồn còn sót lại trong tôi như bị bay màu. Mà dịch ra, “mất gốc” có nghĩa là mất đi di sản – mất đi cội nguồn.
Mặc dù có lẽ những lời nói ấy không mang chủ ý gây tổn thương, nhưng đối với đôi tai non nớt ngày ấy, lời trách móc đó độc địa chẳng khác gì những trò trêu chọc ác ý nơi sân trường. Cũng như chuỗi từ ngữ miệt thị từng nhắm thẳng vào tôi – nào là “gook,” “jap,” “chink,” và thậm chí cả từ “n-word” – lời nói ấy như một nhát cắt sâu, mang theo sự phán xét về một cái sai sẵn có mà tôi không có cách nào phản kháng. Nhưng khác với những lời miệt thị vốn chỉ là những định kiến rỗng tuếch về một nhóm người, thì bị gọi là “mất gốc” lại khiến tôi tan nát, vì nó như dự cảm được một thực trạng. Tôi thường đón nhận lời trách móc ấy trong trạng thái tê liệt, rồi bất động chìm vào một nỗi buồn, một sự tiếc nuối triền miên, và một nỗi cô đơn có phần quá mức chịu đựng cho tâm hồn non trẻ của tôi.
Ngoài những lời chỉ trích, tôi không nhận được bất kỳ chỉ dẫn cụ thể nào để bù đắp cho sự thiếu hụt của mình bằng tri thức. Tôi đơn giản chỉ được kỳ vọng phải tự biết cách làm người Việt. “Hãy ghi nhớ sự hy sinh của chúng ta,” họ nói. Nhưng chẳng ai dành thời gian để giải thích những hy sinh ấy cả. Chẳng ai nói về hàng ngàn người đã thiệt mạng trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” khi bỏ chạy khỏi Quảng Trị trong cuộc Tổng tấn công Mùa Phục Sinh ở Miền Bắc năm 1972. Cũng chẳng ai nói đến những trận pháo dội xuống thường dân đang tháo chạy khỏi Tây Nguyên trước ngày Sài Gòn thất thủ. Và cũng chỉ thông qua tự thân tìm tòi, tôi mới biết về Chiến dịch Cải cách Ruộng đất đẫm máu ở Miền Bắc – thứ tàn khốc đã đẩy gia đình bên nội tôi cùng hàng triệu người khác phải di tản về Miền Nam vào năm 1954.
Dĩ nhiên tôi hiểu vì sao. Có những vết thương quá sâu để có thể diễn tả thành lời.
Điều khó khăn nhất về sự im lặng – dù là do gia đình, cộng đồng, xã hội, hay tự thân áp đặt – chính là ảo giác, là ngộ nhận rằng nó mang tính phổ quát, rằng ai cũng trải qua nó như nhau. Bạn nghĩ rằng sự im lặng bao trùm lấy mọi người một cách công bằng. Nhưng thực chất, thứ thực sự diễn ra chính là sự lụi tàn, dần dần bào mòn câu chuyện đời bạn, và nhận thức về bản thân bạn cũng tan biến đi trong cô lập. Sự im lặng này vận hành như những trại tập trung – từ từ bóp nghẹt thực tại mà chúng ta trải nghiệm đến khi chúng ta trở nên quá trống rỗng để có thể diễn đạt được thực tại đó. Rồi ta bắt đầu ngờ vực sự thật của chính mình. Ngay cả bây giờ, khi viết ra những dòng này, tôi vẫn bị giày xéo bởi một nỗi hoài nghi vô định.
Có lẽ chỉ mỗi tôi.
Nhưng tôi biết tôi không phải là người duy nhất. Sự im lặng khiến ta cảm thấy mình đang một mình.
Khi tôi hỏi thế hệ trẻ hơn về hành trình di cư của gia đình họ, hầu hết họ chỉ biết những điều căn bản, không xúc cảm, cũng không chi tiết.
“Gia đình đi bằng thuyền.”
“30 Tháng Tư, 1975. Họ từng ở đảo Guam.”
Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết mọi người đều từng nghe đi nghe lại cùng một câu nói quen thuộc: “Hãy quên quá khứ đi.” Tôi thậm chí còn từng bị trách: “Biết để làm gì?” – như thể bản chất của việc muốn biết thôi, đã là một điều sai trái. Vấn đề là đối với tôi, sự thật là việc phải quên đi hay bị lãng quên còn đau đớn hơn hẳn việc phải trải qua những đau thương ấy. Sự đau khổ của tôi có ý nghĩa gì nếu nó không được chuyển hóa thành một điều gì đó? Sự đau khổ ấy chính là bậc thềm nơi sự kiên cường trong nhân cách tôi đứng trụ – là cách tôi vươn lên từ chấn thương. Sự im lặng không phải là ưu điểm của tôi.
Song hành với việc bị dạy phải im lặng là cảm giác nặng trĩu trách nhiệm phải nuôi dưỡng và duy trì sự im lặng ấy, ngay cả bây giờ, tôi cũng không chắc vì sao mình vẫn tiếp tục làm như vậy. Kết quả là, trong những gia đình và cộng đồng, nơi mà sự im lặng ấy dần đã hóa thạch thành truyền thống, những câu chuyện xưa bị chôn vùi sâu đến độ không có ngày trồi lên. Nhưng nếu có ngày những câu chuyện ấy trỗi dậy, thì người dám đặt câu hỏi, cất tiếng nói, hay viết về chúng, sẽ phải đối mặt với sự chỉ trích và thậm chí bị lên án. Tôi đã nhiều lần bị yêu cầu “Ngừng viết.”
Tôi ước gì mình có thể kể lại câu chuyện của bác tôi. Tôi ước gì tôi biết được câu chuyện của bác. Không chỉ riêng bác, mà còn cả người bác khác – người từng trốn thoát khỏi trại tập trung sau vài chục năm bị cầm tù, rồi đến cụ cố với phong trào chống thực dân, người bà hành nghề buôn thảo dược, và đôi tình nhân bạc mệnh đã mất tích giữa biển khơi… còn biết bao câu chuyện khác nữa. Nếu chúng ta không nối lại khoảng cách được tạo ra bởi sự im lặng mà nhiều thế hệ bị đô hộ và cuộc chiến đã gieo vào trong chúng ta, thì khoảng cách ấy sẽ trở thành công cụ tự xóa đi chính chúng ta.
***
Điều tốt nhất tôi có thể làm lúc này là chia sẻ câu chuyện của riêng tôi: ký ức mà tôi trân quý nhất về Bác Loan từ một trong nhiều lần thăm bờ Tây hàng năm của bác. Dù mỗi năm tôi chỉ được gặp bác một lần, vào dịp bác ghé thăm California, thì từng khoảnh khắc bên bác đều thật quý giá. Gia đình tôi, trước đây chỉ cách nhau bằng chiều dài của một thành phố ở Việt Nam, nay lại tản mát khắp nước Mỹ – bị chia cắt bởi hai bờ biển đối diện, xa nhau bằng tầm bề ngang của mười hai nước Việt Nam gộp lại. Qua nhiều năm ở Mỹ, tôi học được cách dàn trải sự gắn bó với gia đình – để tình cảm ấy được ngấm sâu vào tim những lúc phải xa cách dài lâu.
Đó là năm 1980 và khi ấy tôi 10 tuổi. Là người cháu lớn nhất trong một gia đình tị nạn ở bờ Tây, tôi được giao cho nhiệm vụ đưa bác đi thăm viếng Little Saigon ở Westminster, California. Đó cũng là nơi mà tôi biết rất rõ vì gia đình tôi từng là một trong những người đầu tiên mở tiệm ở đó. Tôi biết bác là ai vào thời điểm ấy, nhưng đó là một kiểu biết không phán xét và cũng không gắn với nhận thức về chiến tranh. Với tôi, bác cũng như những người chú bác khác – những người luôn tranh nhau làm tâm điểm mỗi buổi tiệc. Bác nghiêm túc, mà cũng dí dỏm. Bác ngồi đó, cười nói rôm rả, những câu chuyện, thật có, đùa có, tuôn ra không ngớt.
Điểm dừng đầu tiên của chuyến đi hôm đó là một nhà hàng Pháp-Việt, nơi mà tôi chỉ được đến vào những dịp thật sự đặc biệt, và hôm ấy là một trong số đó. Điều đầu tiên tôi làm khi bước vào là mở thực đơn ra. Trên đó có filet mignon, châteaubriand, café du Monde, và bánh croissant sô-cô-la. Nhưng có một món tôi chỉ lướt qua, không buồn đọc kỹ: ốc sên.
Tôi đã không thể hiểu vì sao một người bình thường trong suy nghĩ nào có thể bước vào một nhà hàng Pháp sang trọng rồi gọi ốc để ăn. Hệ quả của sự kiện Sài Gòn Thất Thủ đem tôi đi khỏi mái nhà duy nhất tôi từng biết và ném tôi vào một nước Mỹ thời hậu chiến đầy bạo lực với những người lớn mang đầy ám ảnh bên mình, nỗi lo sợ đó đã định hình từng giây phút tỉnh táo trong tôi. Nỗi sợ tràn lan khi tôi nghĩ đến việc phải ăn một thứ ghê ghê, bò lổm ngổm. Khi đó cũng chính là thời kỳ phải ăn ngủ với sự chiếm đóng, thăm nuôi dài hạn của lũ gián trong nhà, và tôi thì cứ hay la hét om sòm mỗi khi nhìn thấy một con sâu bọ nào đó.
Nếu chúng bắt đầu bò lung tung trong bụng tôi thì sao?
Khi tôi chuẩn bị gọi món gà quay rô-ti với cơm và một chiếc bánh éclair sô-cô-la, tôi ngẩng lên, ngay phía mép trên cùng của quyển menu, tôi thấy một đôi mắt to tròn. Là bác tôi đang với người qua quyển menu và nhìn tôi gọi món. Tôi hạ quyển menu xuống một chút. Bác thì gõ nhẹ lên dòng chữ “escargot” (ốc).
“Gọi đi,” bác khuyến khích tôi. Còn tôi thì dè bỉu món ăn đó: “Gì chứ? Không đâu! Ghê quá!” Bác chỉ nhìn tôi và cười.
“Thử đi,” bác nói rồi nhún vai. Và có điều gì đó trong ánh mắt bác khi đó, cùng nụ cười, và phong thái điềm đạm và dịu dàng, đã cho tôi sự tự tin vượt qua nỗi sợ. Thế là tôi gọi món ốc. Khi mấy con ốc được mang ra, một sự lặng yên kéo dài, bác chăm chú nhìn tôi, mắt và miệng bác hé mở một cách rạng rỡ, háo hức chờ tôi nếm thử.
Cho tôi được tạm dừng ở đây để nói điều này, khi mà tôi chỉ mới có mười tuổi, khoảnh khắc đó là lần đầu tiên trong đời có người thật sự dành thời gian để chung vui với tôi trong một trải nghiệm mà tôi khám phá. Tôi là một đứa trẻ người Việt, và là con gái cả. Việc của tôi là làm cho tốt vai trò của một người giúp đỡ. Còn khi tôi không phải giúp ai điều gì, thì việc của tôi là lùi về sau rồi hòa làm một với bức tường, cứ thế đứng yên đó. Ngoan ngoãn, vâng lời, im lặng.
Nhưng để có suy nghĩ và chính kiến riêng? Và hiện diện một cách độc lập? Điều đó chưa bao giờ nằm trong mô tả công việc dành cho tôi. Tệ hơn nữa, mọi thứ khi ấy thực sự khắc nghiệt. Thứ tôi nhận được mỗi ngày là sự đánh đập của bọn bắt nạt và những lời rủa “Hãy cút về nhà” ở đất nước mà tôi hoàn toàn xa lạ, chẳng biết gì về nó, người Mỹ ném đá vào tôi, còn đạn thì họ bắn xuyên khung cửa sổ, bay vào nhà và tiệm của gia đình tôi.
Vào thời điểm đó, và trong suốt hai thập niên đầu đời, tôi luôn cảm thấy mình hoàn toàn đơn độc giữa thế giới này. Vậy nên, khi được đối xử như một con người độc lập, có sở thích và chính kiến riêng là một điều thật tuyệt vời, đến mức buổi hẹn ăn trưa tưởng chừng bình thường ấy lại đọng lại một cách thật kiên cố như xi-măng, mãi mãi trong tâm trí tôi.
Ý tôi là bác đã dừng lại mọi thứ chỉ để trải nghiệm điều đó cùng tôi – khi mà có rất nhiều thứ khác đang diễn ra cùng lúc. Cứ mỗi phút, người người đi ngang bàn, họ muốn được bắt tay với bác, muốn cảm ơn bác, muốn mời bác đi đâu đó, muốn trả tiền cho bữa ăn, và muốn tặng quà cho bác.
Họ chỉ muốn được gần với bác – người mà họ rất ngưỡng mộ.
Nhưng trong vài giây quý giá đầu tiên, khi con ốc vẫn còn nổi lềnh bềnh trên chiếc muỗng ăn súp của tôi, bác xua tay để họ rời đi. Và thế là tôi bỏ con ốc vào miệng. Khi tôi bắt đầu nhai nó, bác giữ ánh mắt tôi lại, vẻ mặt đầy hiếu kỳ
“Thích không? Ngon không?”
Tôi nhớ rằng mình đã cảm thấy mình thật sự quan trọng. Tôi nhớ rõ cảm giác ấy bởi vì tôi chưa từng được cảm thấy như vậy trước đó. Và phải đến vài chục năm sau đó, tôi mới lại được cảm thấy như thế một lần nữa. Chưa từng có ai khiến tôi cảm thấy mình thật sự có ý nghĩa. Và đó là một cảm giác thật lạ lùng.
Kỳ lạ như việc nhai một con ốc có vị cay cay, chua chua và đậm mùi thứ nước mắm mà nó đã ngâm mình hàng giờ trong đó. Tôi nhớ mình đã cắn nó thành nhiều mảnh nhỏ, dò dẫm sự mới lạ trong từng thớ thịt, rồi tôi nuốt nó, trong lúc bác vẫn đang dõi theo tôi. Tôi đã ngạc nhiên với việc thịt ốc ăn như thịt tôm, thịt hàu, và thịt bạch tuộc trộn lại làm một. Và tôi đã thực sự thích ăn ốc. Cuối bữa ăn, bác hỏi tôi có muốn gọi lại món đó thêm lần nào nữa không.
“Không! Không phải món dành cho con!!” Tôi bật lại tiếng cười nắc nẻ của bác.
Vậy nên, mặc dù thế giới nhớ về bác tôi theo một cách rất khác, đây vẫn là một trong nhiều ký ức đẹp mà tôi có về bác. Trong số những người lớn từng hiện diện trong tuổi thơ tôi, bác là một trong hai người duy nhất thật sự dành thời gian để nhìn vào mắt tôi, trò chuyện với tôi, chứ không phải buông lời nói như trút xuống đầu tôi. Bác thực sự thấu hiểu tôi.
Tôi không nghĩ rằng chỉ mỗi tôi thấy như thế. Nếu bạn hỏi bất kỳ ai từng biết bác, họ sẽ kể rằng bác là một người đầy quan tâm, dũng cảm, tận tâm, chăm chỉ, và giàu lòng trắc ẩn. Nhưng làm sao chúng ta có thể biết được những điều ấy, nếu lịch sử chỉ còn có thể được tìm thấy trong những đoản khúc trống vắng mà sự im lặng bỏ lại?
Nếu tôi không chia sẻ mẩu chuyện tưởng chừng ngớ ngẩn này, bạn sẽ khó mà có được một cái nhìn gần gũi vào tính cách của người đàn ông thực chất đầy uyên bác, duyên dáng, và bí ẩn ấy. Những mẩu giai thoại riêng tư hiếm hoi như vậy, nếu có, có lẽ bạn sẽ phải lục lọi mòn mỏi trong phần bình luận dưới các bài đăng trên mạng xã hội, hoặc giữa những dòng hồi ký được viết bằng Tiếng Việt.
Nếu không có những câu chuyện riêng tư, kín tiếng này, thứ còn lại chỉ là những bức biếm họa – được tô vẽ bởi những bàn tay trắng dã của giới truyền thông. Người phóng viên Mỹ hiểu rõ bác tôi nhất lúc bấy giờ, Eddie Adams, có lẽ cũng đã chọn sự im lặng thay vì dấn thân vào trào lưu xuyên tạc của cái gọi là “rạp xiếc truyền thông” của thập niên 70. Tất cả những điều đó thường nhân danh chính trị rồi bóp méo hình ảnh bác tôi, gây tổn hại đến sự an nguy của gia đình bác. Vì tất cả những điều đó đã nhân danh chính trị mà bóp méo hình ảnh bác tôi, chúng đã gây thiệt hại đến sự an nguy của gia đình bác tôi. Vậy nên với bác, im lặng là một điều tất yếu.
Và đó cũng đánh dấu sự vắng bóng của người bác mà tôi từng biết – người từng luôn là nguồn sống của mỗi buổi tiệc. Những chuyến thăm thường niên của bác thường được định hình bằng những bữa tối náo nhiệt, nơi bác buông lời trêu chọc thực khách từ chiếc ghế đầu bàn. Vào những buổi tiệc xuyên đêm đó, khách khứa thường phải bật dậy khỏi ghế, phá lên cười, hay để tiếp tục màn đối đáp, trả đũa vui nhộn. Nhưng giữa mớ âm thanh lộn xộn của tiếng cười nói chồng chéo nhau ấy, cũng có những khoảnh khắc trầm ngâm trong tĩnh lặng. Không hiếm khi bắt gặp bác đắm mình trong một cuộc trò chuyện cùng bạn cũ đến tận khi ánh dương bừng lên.
Và như thế, trái lại với những lời dặn dò phải im lặng, tôi chọn được công khai thừa nhận đó là bác tôi. Những dòng chữ này, bài viết này – tất cả đều là lần đầu tiên được viết ra. Quyết định ấy, với tôi, là một trải nghiệm đầy sợ hãi. Một người thuộc thế hệ 1.5 như tôi đã mất gần ba thập niên để đi đến cột mốc này. Vậy hãy thử tưởng tượng xem sự im lặng ấy còn đè nặng đến dường nào trên đôi vai của thế hệ đi trước.
***
Được rồi… “Cuộc hành quyết ở Sài Gòn.” Tôi sẽ nói về bức ảnh ấy vì tôi biết đó cũng là điều mà độc giả vẫn luôn trông đợi. Tôi đã cố gắng, như cái cách mà Eddie Adams đã từng, nhưng dù thế nào đi nữa, hình tượng bác tôi cũng không thể tách rời khỏi bức ảnh đã mang đến cho ông sự tiếc nuối lẫn tiếng tăm ấy. “Cuộc hành quyết ở Sài Gòn” đã trở thành một phần trong nhân thân tôi, ngay cả trước khi tôi kịp hiểu chính mình. Tôi không rõ bằng cách thức nào mà tôi đã biết đến và nhìn thấy tấm ảnh đó. Tôi chỉ cảm thấy như thể mình đã được sinh ra với vết hằn của tấm ảnh đó ngay tận trên xương.
Khi tôi còn là một đứa trẻ, cứ mỗi Tháng Tư, năm nào cũng vậy, bức ảnh ấy lại xuất hiện trên ti-vi. Những hình ảnh, những thước phim tư liệu đó cứ lặp đi lặp lại, không ngừng. Và mỗi lần nhìn thấy bức ảnh đó, tôi cảm thấy như tôi thấy chính tôi và gia đình tôi trên màn hình. Và có lẽ, từ năm 1968 đến năm 1975, trong phạm vi toàn cầu, và với thế giới bên ngoài, bức ảnh ấy đã trở thành một phần trong thân phận tập thể của tất cả chúng tôi, những đứa con của Việt Nam Cộng Hòa. Giờ đây, “Cuộc hành quyết ở Sài Gòn” không còn chỉ là biểu tượng của Chiến Tranh Việt Nam, nó đã mọc thêm đôi cánh, và được Mỹ hóa, nếu không muốn nói là quốc tế hóa, và trở thành biểu tượng văn hóa mang tính trù dập và lật đổ hình tượng.
Theo tôi được biết từ cuốn Autopsy: The Death of South Vietnam (Khám Nghiệm Tử Thi: Cái Chết của Việt Nam Cộng Hòa) của Tướng Lâm Quang Thi, đoạn phim ấy đã bị chỉnh sửa. Có vẻ như, trong thời đại của cuộc chiến tranh đầu tiên được phát sóng trên truyền hình, thế giới phương Tây thực sự thèm khát hình ảnh thương tật, rách nát nơi thân xác chúng tôi. Mười ba năm trước khi bức ảnh “Cuộc hành quyết ở Sài Gòn” ra đời, hình ảnh Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa, Ngô Đình Diệm, với não và máu vương vãi trên sàn, đã từng tràn ngập trang nhất các mặt báo. Quá rõ ràng rằng người Việt chúng tôi chỉ là những quân cờ lăn lóc giữa những căng thẳng và xung đột toàn cầu, và thân xác chúng tôi, dù cho bị cắt xén, thiêu cháy, đứt lìa, trần truồng, hấp hối, vẫn bị khai thác làm chứng tích sống, để cung phụng cơn đói tư liệu phát sóng ấy.
Thực tế là cả thế giới đã trông thấy chúng tôi trước khi chúng tôi kịp trông thấy chính mình. Trong cuộc chiến này, vị thế, tiếng nói, và toàn thể người dân Việt Nam Cộng Hòa đã bị bịt miệng, xóa mờ, và phớt lờ. Giới truyền thông thì đèo bồng “khẩu vị” trong ánh nhìn của người phương Tây, thứ ánh nhìn thèm thuồng, mong mỏi máu đổ càng nhiều, càng sớm thì tốt. Và rồi, đài NBC, vì quá chán nản với sự chậm rãi ở thực tại, đã cắt ghép đoạn phim ấy để khi bạn xem nó, mọi diễn biến đều tức khắc.
Tức khắc.
Chừng đó thời gian là đủ để bức ảnh kia phủ mờ toàn bộ sự thật trần trụi về Cuộc thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế. Người Mỹ không hề nghe đến chuyện bác tôi đã thức dậy từ trước bình minh, chạy từ trận địa này sang trận địa khác để cứu người và ngăn lại cái chết, cố gắng xoay sở một cuộc xâm lược trước khi nó biến thành một cuộc thảm sát. Dù bác đã có thể ngăn một cuộc thảm sát ở Sài Gòn, bác đã chẳng thể làm điều tương tự cho quê nhà mình, cũng là quê nhà tôi, Huế.
Bác đã không thể ở cùng lúc hai nơi.
Sau Tết Mậu Thân, bác tôi trở về thành phố nơi bác đã lớn lên. Bác trở về giữa cảnh tượng hơn 3000 người đã bị thảm sát. Trong số những nạn nhân ấy là bạn học, là đồng đội, những người đã từng cùng bác ăn và cầu nguyện.
Gia đình bên ngoại tôi đã bị giữ chân trong một cuộc bao vây kéo dài cả tháng. Những phiên tòa diễn ra giữa phố, kèm theo các cuộc hành quyết. Mẹ tôi kể về những con đường mà máu và xác người đổ thành hàng. Trong số 17,000 ngôi nhà của thành phố, chỉ còn 7,000 ngôi nhà trụ lại. Bác tôi đã trở về Huế để góp phần gầy dựng lại hơn 700 căn nhà cho những người mất nơi cư ngụ.
Cho những ai đã sống sót sau biến cố tại Huế trong cộng đồng người Việt hải ngoại, chúng ta có nhà văn Việt Nam Cộng Hòa, Nhã Ca, để tri ân. Bà đã không chọn sự im lặng. Thay vào đó, bà đã ghi lại ký ức của mình trong tác phẩm Giải khăn sô cho Huế. Sự hết mình cho tác phẩm đó cũng đã khiến bà bị bắt và lãnh án học tập cải tạo.
Cho những ai sống sót ở Sài Gòn, bác của tôi và những binh sĩ dưới quyền ông đã được ghi công vì đã cứu sống nhiều mạng người. Bác tôi được nhiều người dân Việt Nam Cộng Hòa biết đến bởi lòng dũng cảm và sự chỉ huy tài tình trong từng trận đánh – luôn dẫn đầu, với cả một hàng quân theo sau. Những binh sĩ ấy đã bất chấp hiểm nguy để ngăn chặn một cuộc thảm sát như cuộc thảm sát đã xảy ra ở Huế – một cuộc thảm sát mà cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ gần như đã lãng quên. Nhưng xưa nay, Hoa Kỳ vẫn luôn có một cách rất kỳ lạ khi đối mặt với những cuộc thảm sát, đó chính là quên chúng đi.
Mỗi tháng Mười Một, người Mỹ chúng ta ăn mừng Lễ Tạ Ơn nhưng lại thất bại trong việc tưởng niệm những nạn nhân trong cuộc thảm sát hơn 700 người Pequot, gồm đàn ông, phụ nữ và trẻ em, xảy ra vào năm 1637 bên bờ sông Mystic, bang Connecticut. Sau cuộc thảm sát đó, Thống đốc John Winthrop của thuộc địa Vịnh Connecticut đã tuyên bố rằng, suốt 100 năm tiếp theo, một bữa tiệc “Tạ Ơn” sẽ được tổ chức hằng năm để ăn mừng cuộc thảm sát ấy. Tương tự như thế, nước Mỹ đến nay vẫn chưa thực thi công lý cho hơn 100 cuộc thảm sát riêng lẻ nhắm vào người Mỹ gốc Phi sau thời kỳ Nội chiến, bao gồm những vụ như cuộc bạo loạn chủng tộc ở Tulsa, bang Oklahoma năm 1921, hay vụ thảm sát tại Elaine, bang Arkansas.
Với một số cuộc thảm sát ấy, nước Mỹ đã dựng bia tưởng niệm và đền thờ để bảo đảm rằng những sự kiện lịch sử ấy sẽ không bị xóa nhòa khỏi ký ức văn hóa tập thể. Tôi chỉ có thể hy vọng rằng cuộc thảm sát ở Huế rồi cũng sẽ có ngày được tưởng niệm như thế. Chỉ khi những hy sinh, trải nghiệm và nỗi đau mà người dân Việt Nam Cộng Hòa phải gánh chịu, được chính Việt Nam thừa nhận và công nhận, thì sự hòa giải mới thực sự có thể bắt đầu.
***
Trong năm thập niên qua, những hồi ký, tiểu thuyết lịch sử và tản văn từ cả hai phía đã khơi dậy sự quan tâm từ thế hệ trẻ trong việc thấu hiểu nỗi đau mà đời ông cha họ đã đi qua. Mỗi khi phía Việt Nam phát hành những tác phẩm mới, cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng đáp lại bằng hàng tá tựa sách cạnh tranh – nhiều trong số đó được tự xuất bản. Chính những người lớn đã từng buộc ta phải im lặng nay nhận ra rằng nếu họ tiếp tục giữ im lặng, thì lối tư duy và giọng điệu một chiều được lên dây và đại trà hóa bởi phía Việt Nam sẽ dành thế thượng phong. Viễn cảnh đó, ngay cả với nhiều người ở Việt Nam, cũng là điều không thể nào nhân nhượng.
Thông qua những tác phẩm của người Việt hải ngoại, chúng ta đã hiểu thêm về vấn nạn vô pháp vào những ngày đầu của đế chế Việt Nam Cộng Hòa, điều mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm từng nỗ lực kiểm soát. Trải nghiệm của người tị nạn cũng đã được khắc họa rõ nét qua những cuốn tiểu thuyết đậm chất hình ảnh (The Best We Could Do /Điều tốt nhất chúng ta có thể làm – Thi Bui, Vietnamerica – G.B. Tran), những bài thơ (Night Sky with Exit Wounds /Bầu trời đêm cùng vết thương lối thoát – Ocean Vương và Inside Out & Back Again/Từ trong ra ngoài & quay trở lại – Thanhha Lại), hồi ký (Sigh, Gone/ Thở dài, mất khuất – Phuc Tran), và các tiểu thuyết văn học (The Gangster We Are All Looking For/Tên du đãng mà chúng ta đang tìm kiếm – lê thị diễm thúy, Things We Lost to the Water/Những thứ ta đánh mất theo dòng nước – Eric Nguyễn). Các sử gia người Việt cũng đã ghi lại công cuộc xây dựng một quốc gia non trẻ giữa thời chiến (The Republic of Vietnam, 1955-1975/Việt Nam Cộng Hòa, 1955-1975: Kinh Nghiệm Kiến Quốc – Tuong Vu). Chúng ta cũng đã biết đến những cuộc tra tấn đọa đày mà những người trung thành với đế chế Miền Nam phải chịu đựng thời hậu chiến, khi họ bị giam giữ ở các trại tập trung (Prisoner of the Word/Tù nhân của ngôn từ – Lê Huê Tài, Flowers from Hell/Hoa Địa Ngục – Nguyễn Chí Thiện).
Từ phía bên đối lập, thông qua các hồi ký như A Vietcong Memoir/Hồi ký của một Việt Cộng của Trương Như Tảng, Last Night I Dreamed of Peace/Đêm qua tôi mơ thấy hòa bình: Nhật ký Đặng Thùy Trâm của Bác sĩ Đặng Thùy Trâm, cùng các tiểu thuyết của Bảo Ninh (The Sorrows of War/Nỗi buồn chiến tranh) và Dương Thu Hương (Paradise of the Blind/Những thiên đường mù), chúng ta đã biết thêm về những trắc trở của những người ôm lý tưởng cộng sản và cả sự vỡ mộng của họ về sau dưới chế độ Cộng Sản.
Mặc cho dòng chảy văn học cứ thế tuôn trào, sự im lặng vẫn cắm rễ trong từng gia đình. Nhiều người trong chúng ta vẫn bị kìm hãm trong sự mù mờ về lịch sử của bản thân. Có người thậm chí còn bị cảnh cáo không bao giờ được phép hỏi. Thay vì được lắng nghe sự thật từ những nhân chứng sống chính là những người thân của mình, ta lại phải tìm kiếm hình ảnh phản chiếu trong gương qua những trang sách mà một người xa lạ viết nên.
Từ những trang sách ấy, chúng ta ghép lại từng mảnh rời để hình dung cha mẹ mình đã từng sống ra sao – từng khoảnh khắc một, với hơi thở nín bặt trong đau đớn và âu lo thường trực. Ta biết họ đã phải trả giá đắt cho cái gọi là “tự do”, nhưng hiếm khi nhận ra rằng cái giá ấy có thể là sự tỉnh táo hay tinh thần họ. Ta công nhận sự sống sót của họ như một sự thật hiển nhiên một cách phũ phàng và hời hợt mà không dám đối diện với cái bóng đổ xuống bởi sự thật ấy – cứ mỗi một người lớn vượt qua được, là hàng chục người khác phải ở lại phía sau.
Ta ghi nhận lòng biết ơn sâu sắc của thế hệ đi trước vì sự sống sót của họ, nhưng lại không thể thấu hiểu hết nỗi đau mà họ mang theo. Chính nỗi đau ấy đã che mờ những sự thật lớn hơn: rằng những thế lực đế quốc từng gây ra khổ đau cho họ cũng chính là những thế lực đã đàn áp người da đen, da nâu và tầng lớp lao động da trắng ở Mỹ. Dù cố gắng đến đâu, chúng ta cũng không thể cắt đứt sợi dây vô hình nối liền những sang chấn từ những biến cố đau thương ở Việt Nam với những phong trào tưởng chừng xa lạ nhưng lại có phần liên quan ở Mỹ ngày nay. Sự im lặng bao trùm lên cuộc đối thoại giữa cha mẹ và con cái – hai thế hệ lặng thinh đứng nhìn nhau qua một hố sâu ngăn cách, được tạo ra bởi lịch sử rối ren, bị nhập nhằng và bóp méo bởi chính sự im lặng ấy.
Việc chỉ dựa vào những tác phẩm này tiềm ẩn nguy cơ phóng đại chỉ một hoặc hai tiếng nói đơn lẻ, mà đánh mất đi vô số tiếng nói khác. Trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt, nhiều người đã lên tiếng phàn nàn về áp lực từ cộng đồng buộc họ phải tuân theo một độc ngôn – một quan điểm và mạch tường thuật duy nhất được chấp nhận và dung thứ. Đây thực chất cũng chỉ là một định dạng khác của sự im lặng. Thực tế, người dân Việt Nam Cộng Hòa đa dạng không kém bất kỳ cộng đồng nào khác. Trong thời chiến, nhiều phe phái chính trị đồng thời tồn tại ở Việt Nam Cộng Hòa, với các tư tưởng cách mạng cạnh tranh nhau. “Cách mạng” không thể bị độc chiếm bởi bất kỳ một thực thể đơn lẻ nào.
Ví dụ, hành trình Việt Nam Cộng Hòa đi từ một xã hội phong kiến dưới thời các chúa Nguyễn đến cuộc thử nghiệm dân chủ dưới thời Tổng thống Thiệu, giữa lòng cuộc chiến, là một cột mốc phi thường. Nỗ lực xây dựng nền dân chủ ấy tự thân đã là một hành động cách mạng. Trước khi Sài Gòn thất thủ, một Quốc hội lưỡng viện – gồm Hạ Nghị Viện và Thượng Nghị Viện– đã chính thức đi vào hoạt động. Dù nền dân chủ non trẻ này tồn tại với nhiều khiếm khuyết do kiểm duyệt và những hạn chế về tự do, vốn gắn liền với lập trường chống cộng, nó vẫn đại diện cho một bước ngoặt cấp tiến, tuyệt giao hoàn toàn lối trị vì truyền thống kéo dài hàng thế kỷ.
Tóm lại, những tác phẩm được viết ra không thể thay thế cho những cuộc đối thoại thiết yếu – những cuộc đối thoại mà đến nay vẫn chưa diễn ra. Chúng ta rồi sẽ chứng kiến những người sống sót sau Chiến tranh Việt Nam ra đi trong sự chia cách, mỗi bên vẫn bị cô lập, vẫn quyết liệt cố thủ đến mức mắc cạn trên chính hòn đảo của mình, không thể nối lại chiếc cầu đầy mất mát và đau thương về tất cả những gì mà họ đã đánh mất giữa hai bờ chia cắt. Và khi họ không còn nữa, chúng ta sẽ lại là những người kế thừa nhiệm vụ đắp lại con đường đá gập ghềnh được truyền xuống qua sự im lặng ấy.
Nhưng làm sao chúng ta có thể sàng lọc đống tàn tích ngổn ngang của năm mươi năm qua? “Học tập cải tạo” vẫn là một vết thương hở chưa bao giờ lành. Sau khi Sài Gòn thất thủ vào tháng Năm năm 1975, bất kỳ ai từng có liên hệ với chính quyền hoặc quân đội Việt Nam Cộng Hòa—từ nhà văn, nghệ sĩ, đến nhà báo—đều bị ép buộc đi “học tập cải tạo.” Họ bị cầm tù vô thời hạn và bị phát cho một tờ giấy buộc phải viết lời thú nhận, tường thuật lại cuộc đời ba thế hệ nhà họ. Khi ấy, sự im lặng không còn là một lựa chọn. Chỉ còn lại sự im lặng có chọn lọc. Còn những người bên ngoài trại cải tạo—họ cất tiếng hay giữ im lặng dựa theo một phép toán sinh tồn—mỗi mặt chữ, hiện hữu hay vắng bóng, đều có thể dẫn đến cái chết.
Và như thế, lịch sử của chúng ta bị mắc kẹt trong một vòng xoáy hủy diệt — nơi mà nhiều người trong chúng ta ở Mỹ đã phải im lặng để sống sót, trong khi những người ở Việt Nam bị buộc phải lộ diện lại bị đàn áp đến câm nín, bị đày vào các trại cải tạo, nơi rất nhiều người đã bỏ mạng và để lại câu chuyện của họ đằng sau lớp kẽm gai.
Từ mọi góc độ, quyền năng của sự im lặng chi phối cái cách mà lịch sử của chúng ta được kể lại: ai là người được quyền kể, yếu tố nào được ghi lại, yếu tố nào bị xóa đi. Sự im lặng của một người bị phức tạp hóa bởi sự im lặng của một người khác. Nước Mỹ đã chuẩn bị sẵn những cỗ quan tài, mà chẳng màng đến sự hiện diện của hàng nghìn tựa sách viết về thời kỳ tiền và hậu chiến Việt Nam. Một sự kiện liên quan đến bác tôi là minh chứng rõ ràng cho điều đó.
Vào năm 1978, khi người dân Việt Nam Cộng Hòa đang mục rữa trong các trại cải tạo, hoặc cháy nắng trên những con thuyền ọp ẹp hướng về “tự do,” làn sóng phản đối nhập cư tại Mỹ ngày càng dữ dội, dẫn đến những chính sách kiểm soát gắt gao hơn. Các chính trị gia kêu gọi trục xuất người tị nạn Nam Việt, những người mà họ cho là đã phạm tội ác chiến tranh. Bác tôi đứng đầu danh sách ấy.
Các phiên điều trần trước Quốc hội được mở, và nhiếp ảnh gia đứng sau bức ảnh “Cuộc hành quyết ở Sài Gòn,” Eddie Adams, được triệu tập để làm nhân chứng chống lại bác tôi. Nhưng thay vì buộc tội, Eddie lại đứng ra cùng với vô số người khác làm chứng bảo vệ bác. Tổng thống Jimmy Carter đã ngăn lại những mưu toan tiến hành quá trình trục xuất ấy, tuyên bố rằng “việc tái dựng lại lịch sử theo cách đó là một điều điên rồ.” Nhưng ý ông Carter thật sự là gì?
Tôi có hai giả thuyết. Giả thuyết đầu tiên của tôi là: Những người dân Việt Nam Cộng Hòa tị nạn là nạn nhân của một cuộc chiến tàn khốc. Bác tôi là nạn nhân của một vụ thảm sát bất thành mà giới truyền thông đã ném vào sự xuyên tạc và cẩu thả mà nhiều người cho rằng còn là một sự lấp liếm vô đạo đức của văn hóa đưa tin.
Tâm điểm của giả thuyết thứ hai của tôi chính là sự im lặng, nhưng lần này lại là sự im lặng của nước Mỹ. Có lẽ Carter, người có hình ảnh gắn liền với lòng nhân đạo, đã muốn hướng lại sự chú ý của nước Mỹ vào trách nhiệm đạo đức của họ trong cuộc chiến Việt Nam, thay vì cố gắng “gột rửa” vai trò của mình bằng cách biến bác tôi thành vật hiến tế.
Có lẽ điều Tổng thống Carter muốn nói chính là: việc bóp méo ký ức văn hóa của nước Mỹ về cuộc thảm sát Tết Mậu Thân không chỉ là bất công, mà còn là thiếu khôn ngoan — nhất là khi chính nước Mỹ từng gây ra những vụ thảm sát với người dân Việt Nam Cộng Hòa, như vụ thảm sát Mỹ Lai, mà họ vẫn chưa từng thực sự đối mặt.
Nỗ lực trục xuất bác tôi diễn ra cùng thời kỳ cay đắng với phiên xét xử Trung úy William Calley – người duy nhất bị kết án trong vụ thảm sát 504 phụ nữ, trẻ em, và đàn ông lớn tuổi bởi 100 lính Mỹ. Calley đã lãnh án chung thân nhưng bản án nhanh chóng được giảm nhẹ. Dù là người trực tiếp chỉ huy và chịu trách nhiệm cho các vụ thảm sát hàng loạt và những ca bạo lực tình dục đã được ghi nhận nhiều nhất trong suốt thế kỷ 20, Calley lại trở thành một hiện tượng gây chấn động dư luận. Người Mỹ đổ về Washington với kêu gọi khoan hồng cho ông ta. Thật vậy, một trong những hành động đầu tiên của Carter khi trở thành Thống đốc bang Georgia là tuyên bố “Ngày Vinh danh Quân lực Hoa Kỳ” và phản đối bản án dành cho Calley, gọi ông ta là một “vật tế.” Đến năm 1976, ông ta đã chỉ trải qua ba năm rưỡi ngục tù trong sự tiện nghi của hình thức quản thúc tại gia, và chưa từng trải qua một giờ nào đứng sau song sắt nhà tù dân sự.
Vở kịch trục xuất ấy lên màn hai thập niên trước khi tờ The Toledo Blade phá vỡ một sự im lặng khám, phơi bày những tội ác chiến tranh, các vụ giết người và bạo hành tình dục do toán binh Tiger Force gây ra ở Tây Nguyên vào năm 1967.
Gần đây, tôi đã đến thăm Khu tưởng niệm vụ thảm sát Mỹ Lai tại Việt Nam. Khu di tích trải rộng trên 41 hecta được chăm chút sạch sẽ, với một bảo tàng có máy lạnh và khung cảnh được thiết kế đầy nghệ thuật, mang tính ám ảnh để tưởng niệm 504 phụ nữ và trẻ em đã bị tra tấn, hành hung và sát hại. Tên của họ được khắc trên một tấm bia đá cẩm thạch đen lớn. Tổng thể, đây là một công trình tưởng niệm trang nghiêm dành cho vụ tấn công xảy ra vào ngày 16 tháng 3 năm 1968 — chỉ vài tuần sau vụ Thảm sát ở Huế, bắt đầu từ ngày 31 tháng 1 năm 1968 và kéo dài suốt 26 ngày. Dù số người thiệt mạng còn gây tranh cãi, ước tính có từ 2,800 đến 6,000 sinh mạng đã bị cướp đi tại Huế — nơi mà lại
… chẳng có gì.
Có lẽ Carter gọi đó là ‘sự điên rồ’ vì ông đã nhìn thấy toàn bộ bức tranh — chứ không chỉ một tấm ảnh.
Và rồi, chúng ta lại trở về với “Cuộc hành quyết ở Sài Gòn.”
***
Ảnh chụp thì im lặng. Chúng không cất lời nhưng vẫn có thể giao tiếp, truyền tải nhiều thông điệp. Ảnh chụp cũng không bao giờ toàn vẹn. Chúng chỉ lưu giữ lại được một thứ gì đó đã bị đánh mất, một khoảnh khắc nhất thời trong quá khứ. Như lời của Uyên P. Đặng:
Ảnh chụp KHÔNG phải tấm gương phản chiếu, mà chỉ là khung cửa sổ. Chúng không nói chuyện. Sự im lặng là điều kiện nguyên sơ của chúng. Một bức ảnh chỉ mang gợi ý về hành động mà nó phơi bày, một khung cửa mở ra cho chúng ta nhìn vào một điều gì đó mà ta gần như chẳng biết gì về – ngoại trừ rằng có một điều gì đó, hoặc một ai đó, từng tồn tại. Một bức ảnh chỉ là một định dạng hữu hình của sự im lặng.
Ta thường xem sự im lặng như một khoảng không, nhưng thực ra không phải vậy. Khoảng không tĩnh lặng ấy chất chứa tất cả những gì chúng ta được thừa hưởng, cùng những lời thì thầm bên tai từ tổ tiên mỗi khi ta dâng lễ vật lên bàn thờ. Khi ta trò chuyện với họ, gửi gắm nơi họ những ước vọng, họ dùng sự im lặng để hồi âm. Và chúng ta, đứng trước bàn thờ, diễn giải sự im lặng ấy thành văn hóa ký ức.
Khi tôi đứng trước bàn thờ bác tôi, tiếng vang đặt cách khỏi sự im lặng ấy là câu khẩu
hiệu mà bác đã đấy lấy làm lẽ sống và hy sinh: “Tổ quốc, Danh dự, Trách nhiệm.” Đó là câu khẩu hiệu của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Tạm hiểu, nó còn có nghĩa là là “Motherland, Honor, Responsibility.” Bác tôi nuôi dưỡng câu khẩu hiệu ấy trong từng tế bào, từ gia đình đến đất nước. Trong thời hiện đại này – những cụm từ ấy có nghĩa như sau trong tôi:
- Tổ quốc – là cam kết và lòng trung thành với cội nguồn
- Danh dự – là sống với phẩm giá và sự trung thực, để bảo đảm rằng những trải nghiệm và hy sinh của chúng ta sẽ được ghi nhận và không bị xóa mờ
- Trách nhiệm – là giữ cương vị và địa vị để có thể gánh vác trách nhiệm phổ biến và truyền tải câu chuyện của người dân tôi
Và ngay cả khi mà tư liệu duy nhất tôi có chỉ là sự im lặng, tôi tin rằng nghĩa vụ của tôi là nhìn sâu vào sự im lặng đó, để lắng nghe tiếng nói của những người đã đi trước và cố gắng hết sức đánh thức những câu chuyện đã ngủ quên trong sự im lặng của họ.
***
Đã có những ngày mà sự im lặng nuốt chửng mọi thứ, và sự điêu tàn lơ lửng trong không khí. Vào những lúc ấy, tôi thấy mình như trở lại làm đứa trẻ mười tuổi – mang trở lại cả một thế giới cô đơn và cô lập, mênh mông đến mức chúng đe dọa sẽ nuốt chửng được cả tôi. Trong những khoảnh khắc đó, suy nghĩ trong tôi luôn tua lại đoạn ký ức duy nhất, không thể thay thế được ở một nhà hàng Pháp-Việt, khi đôi chân tôi còn quá ngắn để chạm tới mặt đất. Bác tôi ngồi đối diện, như một đối trọng giúp cân bằng lại nỗi sợ đã không ngừng nghỉ bám theo tôi. Nỗi sợ đó, thứ vấy đục thế giới của tôi và tiếp tục bao phủ tôi suốt nhiều năm, khiến tôi lưỡng lự trước mọi thứ, khiến tôi sợ tiếng nói của chính mình, và khiến tôi sợ những suy nghĩ của bản thân.
Ngày hôm đó, tôi nhớ rõ cái cách mà, trong một khoảnh khắc cô đọng, bác tôi đã khiến những xáo trộn trong tâm trí tôi lắng xuống và giúp tôi cảm nhận được một cảm xúc vô cùng xa lạ — đó là niềm tin. Trải nghiệm ấy đã giúp tôi vượt qua nỗi sợ — không chỉ là nỗi sợ ăn một con ốc sên trườn bò ghê rợn — mà còn là dám đưa ra lựa chọn giữa những cấm đoán. Tôi làm được điều đó vì tôi đã có niềm tin rằng bác sẽ ở đó — cùng tôi trải nghiệm, ủng hộ tôi, và chăm nom tôi nếu mọi chuyện không được suôn sẻ.
Bác tôi đã lắng nghe và nhìn thấy tôi, và chính điều đó đã gieo một hạt giống mà tôi đã nuôi dưỡng suốt vài thập niên — một ý niệm táo bạo rằng tôi có thể tự định hình số phận của chính mình. Nói cách khác, bác tôi đã bảo đảm rằng tôi có được sự tự chủ.
Đây là những gì mà bác tôi đã làm cho người dân Việt Nam Cộng Hòa.
Bác tôi đã đứng lên và đối mặt với hệ quả từ gánh nặng của đất nước và người dân Việt Nam Cộng Hòa, và của tất cả những hồn ma của cuộc thảm sát Tết Mậu Thân. Bác đã gánh trọng trách đó với sự điềm tĩnh, trí tuệ, lòng nhân ái và một nội lực bẩm sinh mà tôi từng nhiều lần cảm nhận, nhưng đó cũng là những nhận thức mà sự im lặng đã tước đi khỏi thế giới này.
Làm thế nào để ta làm được điều tương tự cho chúng ta? Làm thế nào chúng ta có thể tạo nên một môi trường an toàn và nuôi dưỡng cho những người lớn tuổi và cho những người như tôi trong chúng ta, những con người thừa hưởng sự im lặng và nỗi sợ mà sự im lặng ấy mang theo, để có đủ dũng cảm, như bác tôi đã từng suốt cả cuộc đời, để kể lại câu chuyện của chúng ta? Chỉ với sự dũng cảm, chúng ta mới có thể gom lại và gầy dựng một kho tư liệu đầy đủ hơn với tư cách là người của Việt Nam Cộng Hòa, mang theo trọn vẹn sắc thái và chiều sâu vốn có.
***
Họ nói rằng lịch sử được viết lại bởi kẻ thắng cuộc. Nhưng “thắng” và “thua” chỉ là những khái niệm mang tính chủ quan. Sau năm mươi năm chuyển mình, Việt Nam đã đạt được lý tưởng bình đẳng và tinh thần cộng đồng mà họ hướng tới chưa? “Độc lập” có được cảm thấy bởi mỗi một người trong toàn nước không? Người dân có thực sự cảm thấy được giải phóng? Tổng thể trọng tâm kinh tế có xoáy được vào khoảng cách xa vời giữa tầng lớp thượng lưu và đại bộ phận người dân trong nước, để không còn cảnh nghèo cùng cực nào chưa?
Vậy điều gì rút ra được từ những lời bình như lời bình của Huy Đức, một nhà báo bất đồng chính kiến hiện đang bị cầm tù:
Quyển sách của tôi bắt đầu từ ngày 30 Tháng Tư, 1975 — ngày mà nhiều người tin rằng miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhưng nhiều người, khi cẩn trọng nhìn lại ba mươi năm đã qua, lại hốt hoảng trước cảm giác rằng chính miền Bắc mới là bên được giải phóng.
Bên Thắng Cuộc
Trong suốt 50 năm đó, Việt Nam Cộng Hòa đã tách khỏi quê hương và mang theo người dân, vươn mình ra khắp thế giới, tái lập hàng nghìn “Little Saigons” tại hơn một trăm quốc gia. Bất chấp sự kiện “Sài Gòn thất thủ”, Sài Gòn đã từ chối ngã xuống. Ngay cả với tên gọi mới, người dân trong và ngoài nước vẫn kiên trì gọi tên “Sài Gòn.” Hơn thế nữa, Việt Nam Cộng Hòa ngày nay không còn bị ràng buộc trong ranh giới lãnh thổ. Chúng ta — những người tị nạn — là những người đầu tiên vẽ nên bản đồ của quốc gia ấy.
Trong cộng đồng người Việt hải ngoại, chúng ta từ trước đến nay vẫn luôn đa dạng và phức tạp. Đại diện cho chúng ta không chỉ là một tiếng nói hay một hình ảnh, mà là muôn hình vạn trạng. Đây chính là biểu hiện trực diện của sự tự do có được từ sự ra đi của hàng triệu người trong chúng ta. Chúng ta chỉ thua cuộc, khi chúng ta không đóng góp suy nghĩ một cách sâu sắc, chất vấn lẫn nhau về việc thi hành sự tự do đó. Chúng ta chỉ thua cuộc nếu chúng ta không chung tay xây dựng tương lai bằng cách ghi nhận, tiếc thương, và vinh danh quá khứ tập thể của chúng ta. Chúng ta chỉ thua cuộc khi mà chúng ta im lặng.
Năm mươi năm sau ngày Sài Gòn thất thủ, tôi chính là ác mộng tệ nhất của những người lớn trong nhà — một đứa trẻ không chịu quên, một đứa trẻ từ chối bỏ lại quá khứ phía sau. Khi Sài Gòn thất thủ, tôi chỉ mới bốn tuổi. Người lớn trong nhà đã hy vọng rằng tuổi thơ trong im lặng sẽ bảo vệ tôi. Nhưng không gì có thể đánh lạc hướng tâm trí tôi, lừa tôi phải quên đi.
Tôi không thể quên được nỗi buồn đã gặm nhấm tôi đêm trước khi Sài Gòn thất thủ, khi tôi đứng vắt đôi tay mình vào nỗi tuyệt vọng của mẹ tôi. Tôi đã không hiểu được vì sao mẹ gào khóc và vì sao mẹ run rẩy khi mẹ vun ghém lại toàn bộ cuộc đời khi ấy vào vừa chỉ một cái thùng nhỏ hình vuông. Tôi đã không hiểu vì sao tôi đã bị nhét vào hàng ghế sau của một thứ bằng thép, di động – một chiếc xe – và tại sao, trong chiếc xe đó, một cái đèn cứ gõ vào phía hông đầu tôi. Tôi đã không hiểu được sự hoảng loạn của những người tháo chạy, trang phục Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà chúng tôi cán qua trên đường, hay chiếc miệng khổng lồ mở ra phía sau một chiếc máy bay chở hàng, chờ tôi phía cuối đoạn đường điên cuồng ấy. Tôi đã không hiểu tất cả những điều đó, trong một khoảnh khắc ngắn của thời gian, suýt nữa thì tôi kẹt lại ở sau.
Lẽ ra tôi đã nên quên đi khoảnh khắc dài đằng đẵng ấy, khi tôi cứ đứng đó, bối rối, nhìn chằm chằm vào chiếc C-10 to lớn, trước khi một người đàn ông—mà suốt năm mươi năm tôi đã
ngỡ là Bác Loan—cứu tôi. Mãi đến năm nay tôi mới biết rằng người bế tôi lên chiếc xe jeep khi ấy không phải Bác Loan, mà là em trai của bác—một người có gương mặt y hệt như bác. Hai điều đã phải xảy ra để tôi biết được điều đó: (1) Tôi phải hỏi một người lớn tuổi trong nhà, và (2) người đó phải trả lời. Một cách thật thà.
Những ký ức ấy, thay vì bị nuốt chửng và xóa nhòa bởi tuổi thơ và vài thập niên trong im lặng, lại ám ảnh tôi suốt cả cuộc đời, lấp đầy tôi bằng một cơn đói không thể lý giải, mặc bay những cố gắng từ những người lớn trong nhà.
Chẳng ai trong nhà tôi đã có thể ngăn lại được, mặc cho vô số lần họ cố gắng che giấu, não tôi vẫn tua đi tua lại hình ảnh mà tôi không thể quên: những giọt nước mắt của mẹ tôi vào ngày Sài Gòn thất thủ.
Z.M. Quỳnh is a Vietnamese American dancer, performance artist, and writer whose short stories, essays, and poetry has appeared in Ploughshares, Vice Terraform, Masque & Spectacle, Kweli Journal, Strange Horizons, Glittership, and in the anthologies: The SEA is Ours, Genius Loci: The Spirit of Place, People of Color Destroy Science Fiction, and Luminescent Threads – Connections to Octavia Butler. Zora is an award-winning community organizer, DEI & leadership developer, and social justice movement strategist. Zora is the winner of the 2021 San Francisco Foundation Nomadic Press Literary Award. Zora has received scholarships to attend the Kweli International Literary Festival, Martha’s Vineyard Institute of Creative Writing, VONA, Writing The Other, and the Bread Loaf Writers’ Workshop. Zora is a frequent book reviewer and essayist for diaCRITICS (diacritics.org). You can find Zora sipping boba at zmquynh.com or some iteration of @zmquynh on Facebook, Instagram, Threads, and Bluesky.
Anh Ton is a converted Saigonese in every possible sense, and across all times. Forever inspired by the linguistic and historical dimensions in the works of Vũ Trọng Phụng, Nhất Linh, Lưu Quang Vũ, and Chu Tử, Anh channels her interests into screenwriting and visual arts – both actively and independently.